Các nhà khoa học cho biết, ăn cá khi mang thai có liên quan đến sự trao đổi chất ở trẻ em. Một nghiên cứu trên JAMA Network Open, các nhà khoa học đã ghi lại mức tiêu thụ cá và mức thủy ngân trong máu ở 805 phụ nữ mang thai và sau đó theo dõi sức khỏe trao đổi chất của những trẻ em này trong trung bình 8 năm.

Những nhà nghiên cứu đã đo các chỉ số liên quan đến hội chứng chuyển hóa của những trẻ em nay để đo lường mức độ rủi ro mắc bệnh tim mạch và các bệnh khác: chu vi vòng eo cao, huyết áp cao và nồng độ triglyceride, cholesterol và insulin bất thường.
Những đứa trẻ của những bà mẹ ăn ít hơn một khẩu phần cá hàng tuần trong thời kỳ mang thai sẽ có sự chuyển hóa kém hơn so với những bà mẹ ăn 3 lần cá trên mộ tuần. Tiêu thụ cá vừa phải cũng liên quan đến việc giảm mức độ viêm ở trẻ em.
Tuy nhiêu nếu ăn quá nhiều cá và những loại cá chứa nồng độ thủy ngân cao có thể dẫn đến nồng độ thủy ngân trong máu của người mẹ cao hơn và nồng độ thủy ngân của mẹ cao có liên quan đến điểm số hội chứng chuyển hóa kém hơn ở trẻ em.
Hiện nay trên thế giới, mức độ được chấp nhận của metyl thủy ngân trong cá là 1.0 phần triệu. Những loài cá có mức độ thủy ngân trên 1.0 phần triệu là những loài cá cần tránh dùng quá nhiều trong các bữa ăn. Một số loài cá chứa hàm lượng thủy ngân cao như: Cá ngừ vây dài hoặc cá ngừ đại dương; Cá thu vua; Cá đuối; Cá tuyết; Cá vược; Cá kình Đại Tây Dương; Cá kiếm; Cá mập.
Tuy nhiên, Nikos Stratakis, một nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại Đại học Nam California cũng cho hay, cá có chứa các chất dinh dưỡng quan trọng cho thai nhi đang phát triển.